Skip to main content

Hạm đội Great White – Wikipedia tiếng Việt


Bản đồ hành trình của Hạm đội Great White.

Hạm đội Great White (tiếng Anh: Great White Fleet, nghĩa tiếng Việt: Hạm Đội Trắng Lớn, Hán Việt: Đại Bạch Hạm đội) là biệt danh phổ biến để chỉ một hạm đội tác chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng thực hiện một chuyến hành trình vòng quanh trái đất từ ngày 16 tháng 12 năm 1907 đến ngày 22 tháng 2 năm 1909 theo lệnh của tổng thống Hoa Kỳ Theodore Roosevelt. Hạm đội gồm có 16 thiết giáp hạm được chia thành bốn hải đoàn cùng với nhiều loại chiến hạm hỗ trợ khác nhau. Ý của Tổng thống Roosevelt là muốn chứng minh sức mạnh quân sự của Mỹ đang phát triển và khả năng của Hải quân Hoa Kỳ có thể hoạt động ở những vùng nước sâu.





Soái hạm Connecticut: một trong các bưu thiệp kỷ niệm về các con tàu của Hạm đội Great White

Vào những năm cuối của chính phủ Theodore Roosevelt, tổng thống phái 16 thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ thuộc Hạm đội Đại Tây Dương thực hiện một chuyến hành trình vòng quanh trái đất từ ngày 16 tháng 12 năm 1907 đến ngày 22 tháng 2 năm 1909. Thân của những con tàu này được sơn toàn màu trắng trừ những đường vẽ trang trí phía mũi tàu thì màu đỏ, trắng và xanh biển. Chính vì màu trắng đặc biệt đã làm cho đoàn tàu này sau đó được biết đến với biệt danh là Hạm đội Great White (hay nghĩa tiếng Việt là Hạm đội lớn màu trắng).




Hạm đội đi qua eo biển Magellan, tranh vẽ của họa sĩ hải quân Henry Reuterdahl, người cùng đi với hạm đội trên chiến hạm USS Culoga

Khi kênh đào Panama chưa hoàn tất, hạm đội phải đi vòng qua các eo biển Magellan. Tầm mức của một cuộc hành trình như thế là chưa từng có trước đó trong lịch sử Hoa Kỳ. Cuộc hành trình này đã qui tụ gần như toàn thể khả năng hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ.

Hạm đội đã được hân hoan chào đón khắp nơi trên thế giới. Từ cảng dừng chân này đến cảng khác, hàng ngàn người đã đổ ra để xem và chào đón hạm đội. Năm 1908, Hạm đội Great White ghé thăm Monterey, California từ ngày 1–4 tháng 5. Khách sạn Del Monte đã mở tiệc đại khiêu vũ cho các sĩ quan của hạm đội. Khách sạn Del Monte sau đó trở thành tổng hành dinh cho trường hậu tốt nghiệp hải quân.

Tại Úc, chuyến ghé thăm của Hạm đội ngày 20 tháng 8 năm 1908 được dùng để khuyến khích sự hỗ trợ cho việc thành lập hải quân riêng cho Úc.[1] Khi hạm đội đến thành phố Yokohama, người Nhật đổ ra xem đông đúc để chứng tỏ rằng quốc gia của họ ước muốn hòa bình với Hoa Kỳ; hàng ngàn học sinh Nhật vẫy cờ Mỹ để chào đón các thủy thủ Mỹ khi họ lên bờ. Tại Sicilia, các thủy thủ tham gia giúp đỡ nỗ lực khắc phục hậu quả sau vụ động đất Messina năm 1908.

Tháng 2 năm 1909, Tổng thống Roosevelt có mặt ở Hampton Roads, Virginia để chứng kiến ngày trở về huy hoàng của hạm đội. Ông nói với các sĩ quan và thủy thủ hạm đội như sau: "các quốc gia khác có thể làm những gì mà các anh đã làm nhưng họ sẽ phải đi sau các anh."



Tổng thống Theodore Roosevelt (trên ụ súng bên phải) nói chuyện trước các sĩ quan và thủy thủ chiến hạm Connecticut đang đậu ở Hampton Roads, Virginia ngay sau khi nó trở về từ chuyến hành trình quanh thế giới với Hạm đội Great White ngày 22 tháng 2 năm 1909.

Chuyến hành trình 14 tháng là một cuộc đại phô diễn hải lực Mỹ. Các hải đoàn của hạm đội chở tổng cộng 14 ngàn thủy thủ. Họ đã vượt qua khoảng 43.000 hải lý (80.000 km) và ghé thăm 20 cảng trên 6 lục địa. Hạm đội gây ấn tượng, đặc biệt cho thấy được năng lực công nghệ Mỹ (tất cả 18 chiến hạm đã được đóng từ Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ) nhưng các thiết giáp hạm lại đại diện cho loại chiến hạm tiền-dreadnought bỗng dưng lỗi thời khi các thiết giáp hạm thời-Dreadnought vừa bắt đầu đưa vào phục vụ và chiến hạm thời-dreadnought của Hải quân Hoa Kỳ là South Carolina vừa được trang bị xong. Hai chiếc cũ nhất trong hạm đội là KearsargeKentucky đã riệu rã và không còn hợp cho tác chiến; hai chiếc khác là MaineAlabama phải bị tách ra tại cảng San Francisco, California vì trục trặc máy móc. Sau khi sửa chữa, hai chiếc này hoàn thành cuộc hành trình riêng của mình quanh thế giới một cách trực diện hơn qua ngã Honolulu, Guam, Manila, Singapore, Colombo, Suez, Naples, Gibraltar, Açores, và cuối cùng về đến Hoa Kỳ ngày 20 tháng 10 năm 1908 sớm hơn phần còn lại của hạm đội rất lâu vì các chiến hạm kia đã thực hiện cuộc hành trình qua nhiều đoạn đường vòng quanh hơn.)

Các thiết giáp hạm được một "hải đoàn ngư lôi hạm" gồm sáu chiếc khu trục hạm thời kỳ đầu đi cùng cũng như một số tàu hỗ trợ khác. Thực tế thì các khu trục hạm và các khu trục hạm cơ xưởng không tháp tùng bên cạnh các thiết giáp hạm mà đi theo hải trình riêng của chúng từ Hampton Roads, tiểu bang Virginia đến San Francisco, tiểu bang California. Hai thiết giáp hạm tách ra khỏi hạm đội tại San Francisco, và hai chiếc khác được thêm vào thay thế.

Hạm đội có biệt danh "Hạm đội Đại Bạch" vì thân của các con tàu được sơn màu trắng.


Hải trình tổng thể của hạm đội[sửa | sửa mã nguồn]


Chiếc Connecticut dẫn đầu Hạm đội Great White năm 1907.

Bưu thiếp năm 1908 chào mừng hạm đội đến Úc.


Với chiếc Connecticut là soái hạm dưới quyền tư lệnh của chuẩn đô đốc Robley D. Evans, hạm đội khởi hành từ Hampton Roads ngày 16 tháng 12 năm 1907 để tới Trinidad trong vùng Tây Indies thuộc Anh, rồi đến Rio de Janeiro của Brasil; Punta Arenas của Chile; Callao của Peru; Vịnh Magdalena của México, đi lên Tây Duyên hải Hoa Kỳ để đến San Francisco ngày 6 tháng 5 năm 1908.

Tại San Francisco, chuẩn đô đốc Charles S. Sperry tiếp nhận làm tư lệnh hạm đội vì sức khỏe của chuẩn đô đốc Evans sa xút. Cũng tại San Francisco, các hải đoàn được tái bố trí một ít, đưa các chiến hạm tốt nhất và mới nhất của hạm đội sang hải đoàn số 1. Chiếc Glacier bị tách ra và sau đó trở thành tàu tiếp vận của Hạm đội Thái Bình Dương. Lúc này chiếc Nebraska của thuyền trưởng Reginald F. Nicholson và chiếc Wisconsin của thuyền trưởng Frank E. Beatty được đưa vào thay thế cho chiếc MaineAlabama. Tại San Francisco, Minnesota được đưa lên trước vào Hải đội số 1 và chiếc Louisiana chiếm vị trí soái hạm, Hải đoàn số 2.

Rời cảng ngày 7 tháng 7 năm 1908 Hạm đội Đại Tây Dương Hoa Kỳ ghé thăm Honolulu; Auckland, của New Zealand; Sydney và Melbourne của Australia; Manila của Philippines; Yokohama của Nhật Bản; Colombo của Sri Lanka; đến Suez của Ai Cập ngày 3 tháng 1 năm 1909.

Như được nhắc ở trên, trong lúc hạm đội ở Ai Cập thì nghe tin một trận động đất xảy ra tại Sicilia vì thế đây là cơ hội của Hoa Kỳ chứng tỏ tình hữu nghị với Ý qua việc giúp đỡ các nạn nhân của vụ động đất. Các chiến hạm Connecticut, Illinois, Culgoa, và Yankton được điều đến Messina, Italy ngay lập tức. Thủy thủ đoàn của chiếc Illinois tìm kiếm được xác của vợ chồng tổng lãnh sự Mỹ bị chôn vùi trong đống đổ nát.

Chiếc Scorpion đang ở Constantinopolis và chiếc Celtic được trang bị ở New York cũng vội vã đến Messina thay thế cho ConnecticutIllinois để hai tàu này có thể tiếp tục cuộc hành trình.

Rời Messina ngày 9 tháng 1 năm 1909, hạm đội dừng tại Naples của Ý rồi sau đó đến Gibraltar và về đến Hampton Roads ngày 22 tháng 2 năm 1909. Tổng thống Roosevelt có mặt ở đó để duyệt hạm đội khi chúng đi ngang qua vùng nước phía ngoài cảng.



Từ Hampton Roads đến San Francisco dài 14.556 hải lý (26.958 km)


Hải trình

Chặng thứ hai của cuộc hành trình là từ thành phố San Francisco đến Puget Sound (phia bắc duyên hải tiểu bang Washington, gần biên giới Canada) rồi trở về lại San Francisco.



Từ San Francisco đến Manila 16.336 hải lý (30.254 km)


Hải trình




































Cảng
Đến
Khởi hành
Đoạn đường đến cảng kế tiếp
San Francisco, California
 
7 tháng 7 năm 1908
2.126 hải lý (3.937 km)
Honolulu, Hawaii
16 tháng 7 năm 1908
22 tháng 7 năm 1908
3.870 hải lý (7.170 km)
Auckland, New Zealand
9 tháng 8 năm 1908
15 tháng 8 năm 1908
1.307 hải lý (2.421 km)
Sydney, Úc
20 tháng 8 năm 1908
28 tháng 8 năm 1908
  601 hải lý (1.113 km)
Melbourne, Australia
29 tháng 8 năm 1908
5 tháng 9 năm 1908
1.368 hải lý (2.534 km)
Albany, Australia
11 tháng 9 năm 1908
18 tháng 9 năm 1908
3.458 hải lý (6.404 km)
Manila, Quần đảo Philippines
2 tháng 10 năm 1908
9 tháng 10 năm 1908
1.795 hải lý (3.324 km)
Yokohama, Nhật Bản
18 tháng 10 năm 1908
25 tháng 10 năm 1908
1.811 nmi (3.354 km)
Hạ Môn, Trung Hoa
(Hải đoàn số 2)
29 tháng 10 năm 1908
5 tháng 11 năm 1908
 
Manila, Quần đảo Philippine
(Hải đoàn số 1)
31 tháng 10 năm 1908
 
 
Manila, Quần đảo Philippine
(Hải đoàn số 2)
7 tháng 11 năm 1908
 
 


Chặng cuối cùng của hạm đội là từ Manila về đến cảng nhà ở Hampton Roads dài 12.455 hải lý (23.067 km).


Hải trình


















Cảng
Đến
Khởi hành
Khoảng đường đến cảng kế tiếp
Manila, Quần đảo Philippine
 
1 tháng 12 năm 1908
2.985 hải lý (5.528 km)
Colombo, Sri Lanka
13 tháng 12 năm 1908
20 tháng 12 năm 1908
3.448 hải lý (6.386 km)
Suez, Ai Cập
3 tháng 1 năm 1909
4–6 tháng 1 năm 1909
2.443 hải lý (4.524 km)
Gibraltar
31 tháng 1 năm 1909
6 tháng 2 năm 1909
3.579 hải lý (6.628 km)
Hampton Roads, Virginia
22 tháng 2 năm 1909
 
 


  1. ^ “Great White Fleet revisits Sydney Harbour”. Afloat (Afloat Publications Pty Ltd). Ngày 1 tháng 9 năm 2008. tr. 40. 

  2. ^ The US 'Great White Fleet' arrives in Auckland (from the 'NZ History' website, truy cập 3 tháng 8 năm 2007)



Hành trình vòng quanh thế giới của Hạm đội Great[sửa | sửa mã nguồn]


  • Crawford, M. J., The World Cruise of the Great White Fleet: Honoring 100 Years of Global Partnerships and Security. (2008)

  • Hart, R. A., The Great White Fleet: Its Voyage Around the World, 1907-1909. (1965)

  • Nolte, Carl, "Great White Fleet Visited S.F. 100 Years Ago", San Francisco Chronicle, 6 tháng 5 năm 2008 pg. B3.

  • Reckner, J. R., Teddy Roosevelt's Great White Fleet: The World Cruise of the American Battlefleet, 1907 - 1909. (1988)

  • Wimmel, K., Theodore Roosevelt and the Great White Fleet: American Sea Power Comes of Age. (1998)

Chiến tranh Nga-Nhật[sửa | sửa mã nguồn]


  • Corbett, Julian, Sir. Maritime Operations in the Russo-Japanese War 1904-1905. (1994). Originally classified Secret/Confidential until the 1950s; published in two volumnes. ISBN

1557501297


  • Pleshakov, Constantine. The Tsar's Last Armada: The Epic Voyage to the Battle of Tsushima. (2002). ISBN 0-465-05792-6

  • Semenov, Vladimir, Capt. The Battle of Tsushima. (1912). E.P. Dutton & Co.

Comments

Popular posts from this blog

Những câu chuyện kỳ lạ của Darren Shan – Wikipedia tiếng Việt

Darren Shan là bộ truyện của nhà văn Darren O'Shaughnessy, người thường viết dưới bút danh Darren Shan. Sinh ngày 2 tháng 7 năm 1972, tại Luân Đôn, nước Anh. Darren là nhà văn người Ireland. Là một nhà văn bình thường cho đến khi ra mắt tác phẩm Darren Shan , là tác giả của bộ truyện nổi tiếng The Demonata Bài chi tiết: Những nhân vật trong Darren Shan Gồm: Những câu truyện kỳ lạ của Darren Shan (Tiếng Anh: The Saga of Darren Shan) gồm 4 phần lớn, mỗi phần lớn gồm 3 cuốn: 1. Dòng máu Ma-cà-rồng: 1.Gánh xiếc quái dị: Để cứu Steve, Darren phải trở thành Ma-cà-rồng và đi theo ông Crepsley. 2.Đệ tử của Ma-cà-rồng: Sau một thời gian đi lang thang, Darren và Crepsley trở về Gánh xiếc quái dị, Darren, Evra và Sam Grest phải trải qua nỗi kinh hoàng với Người-sói. 3.Địa đạo máu: Được tin quê hương ông Crepsley đang gặp nguy hiểm, Darren, Evra, Crepsley quay về thành phố quê hương ông. Một tình yêu trong sáng đã nảy nở giữa Darren và Debbie, nhưng một trận chiến với Murlough sẽ làm thay đổi

Orignac – Wikipedia tiếng Việt

Tọa độ: 43°07′33″B 0°10′14″Đ  /  43,1258333333°B 0,170555555556°Đ  / 43.1258333333; 0.170555555556 Orignac Orignac Hành chính Quốc gia Pháp Vùng Occitanie Tỉnh Hautes-Pyrénées Quận Quận Bagnères-de-Bigorre Tổng Tổng Bagnères-de-Bigorre Thống kê Độ cao 393–568 m (1.289–1.864 ft) (bình quân 550 m/1.800 ft) Diện tích đất 1 9,91 km 2 (3,83 sq mi) Nhân khẩu 2 248   (1999)  - Mật độ 25 /km 2 (65 /sq mi) INSEE/Mã bưu chính 65338/ 65200 1 Dữ liệu địa chính Pháp loại trừ các hồ và ao lớn hơn 1 km² (0.386 dặm vuông hoặc 247 acre) cũng như các cửa sông. 2 Dân số không tính hai lần : cư dân của nhiều xã (ví dụ, các sinh viên và quân nhân) chỉ tính một lần. Orignac là một xã thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées trong vùng Occitanie tây nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 550 mét trên mực nước biển. INSEE x t s Xã của tỉnh Hautes-Pyrénées Adast  · Adé  · Adervielle-Pouchergues  · Agos-Vidalos  · Allier  · Ancizan  · Andrest  · Anères  · Les Angles  · Angos  ·

Carling Nhãn Đen – Wikipedia tiếng Việt

Logo của Carling Black Label Carling là một thương hiệu đang thuộc quyền sở hữu của công ty Molson Coors Brewing tại Nam Phi và được phân phối bởi SABMiller. Carling Nhãn Đen (Tiếng Anh: Carling Black Label ) là tên của một thương hiệu bia lớn ở Úc, Canada, Ireland, Vương quốc Anh và Nam Phi. Tại Thụy Điển nó được gọi là Carling Premier . Carling lấy từ tên của Thomas Carling, một nông dân ở vùng Yorkshire, người đã chế tạo ra loại bia này. Gia đình ông sống ở cánh đồng phong phú của miền đông Canada, bây giờ là thành phố London, Ontario. Carling cũng là nhà tài trợ đứng đầu của Cúp Liên đoàn bóng đá Anh bây giờ được gọi là Carling Cup . Một trong những chuỗi quán rượu lớn nhất ở Anh, Wetherspoons, quyết định trong tháng 09 Năm 2009 rầng sẽ không cung cấp Carling nữa. Lý luận của họ là suy nghĩ rộng rãi để thúc đẩy giá cả, và họ đã ký vào một hợp đồng độc quyền bảy năm với hãng bia Đan Mạch Carlsberg. Carling Black Label là một bia được bán tại Canada và Nam Phi, là sản phẩm bán c